Cần có các giải pháp từ thể chế đến trực tiếp cho thị trường tài chính
Chiều 18-7, Trường Đại học Ngân hàng (NH) TP HCM tổ chức hội thảo khoa học FINHUB 2024 với chủ đề “Phát triển bền vững thị trường tài chính Việt Nam”. Sự kiện được Báo Người Lao Động bảo trợ thông tin.
Tài chính “chưa xanh”
Tại hội thảo, ông Nguyễn Xuân Thành, giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, nhận định tài chính xanh, tài chính số của Việt Nam vẫn đang tụt hậu so với thế giới và khu vực, ngay cả với Campuchia. Các quốc gia Đông Nam Á đã ban hành khung pháp lý chính thức cấp phép cho tài chính số, NH số, trong khi Việt Nam vẫn còn thiếu. Đặc biệt, về trung hạn, Việt Nam cần vốn xanh nhưng trong 10 năm tới không có nguồn vốn xanh nào để cho vay, doanh nghiệp (DN) phải tìm đến vốn từ thị trường quốc tế. Bởi vốn xanh thường có tỉ suất sinh lợi thấp hơn, trong khi Việt Nam chưa quen chấp nhận điều này.
Các đại biểu tham dự hội thảo khoa học FINHUB 2024
Nói về những bài học thành công và thất bại trong cải cách hệ thống tài chính qua gần 40 năm đổi mới, ông Nguyễn Xuân Thành cho rằng Việt Nam đã có bài học thành công trong cải cách hệ thống tài chính, đó là tự do hóa và phát triển tài chính theo chiều sâu; trao quyền tự chủ cho các NH thương mại quốc doanh để hoạt động như NH thương mại hiện đại theo hướng thị trường; cải cách thể chế để tạo lập các định chế và thị trường tài chính mới (định chế tài chính ngoài quốc doanh, thị trường chứng khoán) và hội nhập tài chính quốc tế theo hướng thận trọng. Tuy nhiên, ngành tài chính vẫn còn phụ thuộc vào các công cụ hành chính thay vì công cụ thị trường để điều hành, quản lý nhà nước về tài chính, NH; để tình trạng sở hữu chéo xuất hiện và tồn tại dù cơ quan quản lý đã nỗ lực tái cấu trúc hệ thống tài chính; thị trường trái phiếu DN phát triển nhưng thiếu sự giám sát chặt chẽ; chậm xây dựng khung pháp lý để hỗ trợ các dịch vụ tài chính mới như tài chính xanh, tài chính số và NH số…
Ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó Giám đốc NH Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh TP HCM, thừa nhận tín dụng xanh hiện vẫn ở mức khiêm tốn, chỉ khoảng 4,5% – 5% so với tổng dư nợ tín dụng. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng gần đây khá tốt, luôn tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung tín dụng của ngành.
Theo ông Nguyễn Đức Lệnh, phát triển kinh tế bền vững cần phải đi cùng quá trình chuyển đổi kinh tế xanh – số – tuần hoàn. Trên cơ sở chương trình hành động của Chính phủ, đặc biệt là Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, NH Nhà nước đã xây dựng các chương trình hành động của ngành NH về phát triển kinh tế xanh; nhận thức của cán bộ NH về NH xanh, kinh tế xanh, tín dụng xanh đã được nâng cao.
Ở góc độ thực thi, NH thương mại đang đẩy mạnh cho vay tín dụng xanh các dự án xanh như năng lượng xanh, nông nghiệp xanh, hoạt động tạo ra các sản phẩm xanh…
“Tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh gần đây rất tốt do đang chịu áp lực lớn về phát triển tín dụng xanh, nhất là các DN xuất khẩu hàng hóa sang châu Âu và Mỹ đang bắt đầu quan tâm đến yếu tố xuất xứ xanh. Đó là động lực phát triển tín dụng xanh và trở thành ngành lõi của các NH” – ông Nguyễn Đức Lệnh nói.
Cần những giải pháp toàn diện
TS Nguyễn Anh Vũ, Trưởng Khoa Tài chính Trường Đại học NH TP HCM, nhấn mạnh khi xem xét quá trình phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam trên 3 khía cạnh – độ sâu, khả năng tiếp cận và hiệu quả của tổ chức tài chính và thị trường tài chính – cho thấy trong suốt giai đoạn quan sát từ năm 1992 đến nay, 3 trụ cột NH – bảo hiểm – chứng khoán đã có sự tăng trưởng và phát triển nhất định. Mức độ đóng góp của từng lĩnh vực vào nền kinh tế là vô cùng cần thiết, đặc biệt là vai trò cung ứng và luân chuyển vốn. Vì thế để phát triển bền vững, cần tạo ra môi trường pháp lý, môi trường đầu tư và các chính sách khuyến khích phù hợp nhằm phát triển thị trường bảo hiểm, thị trường chứng khoán và các định chế tài chính như các quỹ đầu tư, quỹ hưu trí; hướng đến xây dựng một hệ thống tài chính đa dạng, cân bằng và an toàn.
Đồng thời, gia tăng số lượng chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch, đa dạng các loại hình công cụ đầu tư, tăng khả năng tiếp cận và góp phần làm giảm rủi ro trên thị trường. Song song đó, cần nhanh chóng triển khai đồng bộ hệ thống giao dịch chứng khoán và cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho hoạt động giao dịch. Đặc biệt, các chương trình giáo dục tài chính, truyền thông, marketing cần được thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất, lâu dài trên cơ sở phối hợp giữa các cơ quan quản lý, cơ sở giáo dục và các định chế tài chính. Các DN cũng cần thay đổi nhận thức để xây dựng hệ thống thông tin tài chính minh bạch, theo đúng các chuẩn mực Việt Nam và quốc tế, từ đó tăng cường khả năng tiếp cận vốn, đa dạng hóa kênh huy động vốn.
Theo PGS-TS Nguyễn Đức Trung, Hiệu trưởng Trường Đại học NH TP HCM, sự phát triển của các công nghệ mới và tác động của nó đến thị trường tài chính, vấn đề giám sát, tuân thủ và kỷ luật thị trường, phát triển cơ sở hạ tầng tài chính, nâng hạng thị trường, tài chính xanh, tài chính bền vững cũng là những cơ hội và thách thức mới đối với hệ thống tài chính của Việt Nam.
Sự phát triển thị trường tài chính cần có sự đồng đều, bởi chúng ta chỉ mới phát triển thị trường tín dụng mà chưa phát triển chứng khoán, bảo hiểm, 2 lĩnh vực này còn dư địa phát triển rất lớn. Để được như vậy, cần có các giải pháp từ thể chế đến giải pháp trực tiếp cho thị trường, như đưa ra sản phẩm công nghệ, đào tạo, cũng như xây dựng niềm tin để phát triển thị trường tài chính bền vững.
Theo TS Nguyễn Kiều Lan Phương, Viện Ứng dụng công nghệ và Phát triển bền vững – Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, DN nên đầu tư vào các ngành công nghiệp xanh hoặc phát triển sản phẩm có tính thân thiện với môi trường. Điều này không chỉ nâng cao hình ảnh và uy tín của DN mà còn có thể tạo ra doanh thu bền vững và thúc đẩy sự phát triển kinh doanh. Đối với cơ quan nhà nước, cần cân bằng giữa vốn chủ sở hữu và vốn vay trong nền kinh tế. Hơn nữa, Chính phủ cần hướng DN trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp xanh, thay vì tập trung quá mức vào tăng trưởng GDP. Ban hành các quy định bắt buộc các Fintech (Momo, VNPay, Finhay…) phải có công cụ đo lường mức độ phát thải carbon, có chính sách/công cụ hỗ trợ người dùng hoán đổi lượng khí thải carbon tiết kiệm được thành các voucher/code khuyến mãi…
TS Nguyễn Kiều Lan Phương cho rằng Chính phủ cần thúc đẩy các chính sách thuế và phát hành trái phiếu xanh để hỗ trợ và khuyến khích DN giảm thiểu lượng phát thải carbon. Hướng dẫn người dân tham gia trồng và bảo vệ rừng nhằm tăng thu nhập cho các hộ gia đình thông qua hệ thống bán tín chỉ carbon. Đơn giản hóa thủ tục hành chính để DN dễ dàng tham gia thị trường giao dịch tín chỉ carbon toàn cầu nhằm giảm thiểu chi phí sản xuất.