Theo Bộ LĐ-TB&XH, thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 3 tháng. Mức hưởng là 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp là tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế.
Người dân làm thủ tục hưởng bảo hiểm thất nghiệp
Trả lời đề xuất giảm tỷ lệ đóng bảo hiểm thất nghiệp của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội nêu nguyên tắc quy định tại Điều 15 Công ước số 168 của Tổ chức Lao động Quốc tế về xúc tiến việc làm và bảo vệ chống thất nghiệp, mức trợ cấp thất nghiệp không ít hơn 45% thu nhập trước đó.
Hoặc mức trợ cấp thất nghiệp không ít hơn 45% tiền lương tối thiểu hoặc tiền lương của người lao động bình thường, nhưng không thấp hơn mức có thể đảm bảo mức sống cơ bản tối thiểu.
Cơ quan quản lý nhà nước về lao động cũng dẫn chiếu Điều 24 Công ước số 102 của Tổ chức Lao động Quốc tế về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội quy định, thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 12 tuần (3 tháng) trong thời kỳ 12 tháng.
Ngoài ra, theo pháp luật Việt Nam, Bộ luật Lao động quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động, trong việc chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên, từ đủ 12 tháng trở lên khi chấm dứt hợp đồng lao động thuộc một trong các trường hợp theo quy định.
Mỗi năm làm việc, người lao động được trợ cấp 1/2 tháng tiền lương (tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân của 6 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi người lao động thôi việc).
Đồng thời, Bộ luật Lao động quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động, trong việc chi trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên mà bị mất việc làm trong các trường hợp theo quy định.
Căn cứ các quy định nêu trên, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho rằng, thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 3 tháng, với mức hưởng là 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp là tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế.
Các mức trợ cấp mà người lao động được nhận khi mất việc làm theo quy định hiện hành đảm bảo cho người lao động giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống trong thời gian thất nghiệp, cho tới khi tìm được việc làm mới.
Trong quá trình tổ chức triển khai chính sách bảo hiểm thất nghiệp, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.
Mặt khác, Bộ đã yêu cầu các Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, các Trung tâm dịch vụ việc làm tăng cường phối hợp với các cơ quan có liên quan giải quyết các khó khăn, vướng mắc về bảo hiểm thất nghiệp, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm, các hành vi gian lận, trục lợi bảo hiểm thất nghiệp.
Thực tế, để hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại Điều 49 Luật Việc làm, người lao động phải nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp, trong đó có quyết định nghỉ việc, sổ bảo hiểm xã hội được chốt.
Hai giấy tờ này phải do người sử dụng lao động thực hiện, sau đó chuyển cho người lao động thì mới được hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Trong quá trình hưởng trợ cấp thất nghiệp, hằng tháng, người lao động phải thông báo tình hình tìm kiếm việc làm với Trung tâm dịch vụ việc làm.
Hơn nữa, nếu người lao động nghỉ việc cũng mất toàn bộ 100% tiền lương, chưa kể cả khoản tiền thưởng, phụ cấp…, chỉ để hưởng 60% tiền lương thì người lao động phải cân nhắc.
Do đó, theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, số người lao động lợi dụng quy định của pháp luật, chỉ làm việc và đóng 12 tháng xin nghỉ việc gây biến động lao động là không nhiều.
Hiện Bộ LĐ-TB&XH được giao chủ trì, xây dựng dự án Luật Việc làm (sửa đổi), trong đó có yêu cầu nghiên cứu, sửa đổi chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Vì thế, những kiến nghị, đề xuất liên quan đến vấn đề này sẽ tiếp tục được xem xét trong quá trình xây dựng dự luật.